Home Blog Page 5

Cội nguồn: Người mẹ – một điểm nhìn trong thơ Trương Trọng Nghĩa

Nhà thơ Trương Trọng Nghĩa hay nói về Mẫu. Đạo Mẫu là một tín ngưỡng mang bản sắc văn hóa Việt Nam rất đậm đà. Những giá trị nhân văn, nhân đạo mà tín ngưỡng thờ mẫu để lại là nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời trong nền văn minh nông nghiệp lúa nước, ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ và quan trọng nhất là niềm yêu thương, trân trọng biết ơn đối với những người sinh thành dưỡng dục, có công với cuộc đời mỗi người và sự nghiệp chung của các dân tộc. Hình ảnh người mẹ trong tín ngưỡng dân gian và trong tâm thức người Việt là hình ảnh của người chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng và dạy dỗ cho mọi người. Điều đó lý giải vì sao cả khi vui lẫn khi buồn, khi thành công hay thất bại người ta đều muốn trở về để nhận được sự bao dung, vỗ về của người mẹ.

Dường như Trương Trọng Nghĩa có một niềm tin vào Mẫu rất mãnh liệt, vì thế thơ anh có nhiều dấu ấn khi viết về người mẹ. Trương Trọng Nghĩa dành cả một bài thơ Tuổi xuân cánh hồng nói về “cánh đồng bao la tình yêu của mẹ”. Hình ảnh mẹ, hình ảnh mẫu trong thơ anh cũng xuất hiện rất nhiều trong các bài thơ khác. Đó là những hình ảnh bao bọc, chở che, đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở, trù phú và hết sức nên thơ. Hình ảnh người mẹ không chỉ vĩ đại trong tâm trí người Việt mà còn vĩ đại trong tâm thức của những dân tộc, con người biết trân trọng yêu quý cái đẹp. Nhà thơ M. Gorki từng thốt lên rằng:

                                                Đời thiếu mẹ hiền, không phụ nữ
                                                Anh hùng, thi sĩ hỏi còn ai

            Theo thống kê của chúng tôi, 35 bài trong tập thơ Bay lên từ cánh đồng (Nxb Văn hóa – Văn nghệ, 2019) của Trương Trọng Nghĩa hình tượng mẫu đã xuất hiện không dưới 10 bài thơ và các biến thể tương ứng của mẹ như bà, chị, đàn bà…

            Trong bài Tuổi xuân cánh hồng, hình ảnh người con rõ ràng là một ẩn dụ cho đời sống, sự tồn tại của vạn vật, trăm điều trong cuộc chiếu đấu của đấu trường tiến hóa. Hình tượng Mẫu là đấng toàn năng, hoàn bị, đã sinh thành ra con người, che chở, bảo vệ cho những đứa con và giúp chúng sinh tồn, thích nghi, tranh đấu bảo vệ sự sống của chính mình:

                        Mẹ gửi tuổi xuân cho bao mùa mưa nắng trên đồng
                        Cánh đồng trả cho chúng tôi những bát cơm thơm dẻo…
                        Dáng mẹ gầy gò đếm từng mùa giáp hạt
                        Lam lũ đôi tay nhăn nheo một đời bám đất, dính phèn…
                        Chúng tôi lớn lên từ cánh đồng bao la tình yêu của mẹ
                        Từng hạt phù sa đắp bồi cho mùa cây trái sinh sôi
                        Cánh đồng bé thôi mà mẹ tôi quanh quẩn cả cuộc đời
                        Mỗi vụ gieo trồng mẹ lại gửi vào đất đai bao hy vọng

                                                                                                (Tuổi xuân cánh hồng)

            Người ta tin rằng, trong bất cứ thời điểm nào, ở bất cứ đâu, với mọi hoàn cảnh của cuộc sống, mẫu với nhiều hóa thân khác nhau luôn luôn theo sát, nâng niu, bảo vệ và làm nhiệm vụ dẫn đường cho con vượt qua bao khó khăn, thử thách, bao sóng to gió lớn của cuộc đời:

                                    Mẹ tôi gầy gò như cây lúa héo non
                                    Cố tiễn tôi qua hết những cánh đồng trơ rạ
                                    Tiếng còi tau vang rền làm đàn chim giật mình hối hả
                                    Bay vút lên từ phía những cánh đồng
                                    Bỏ lại khoảng trời mênh mông…

                                                                        (Bay lên từ cánh đồng)

            Hình ảnh con trong những câu thơ trên vừa có tính cá thể đơn nhất vừa mang tính quảng đại quần thể, đó là biểu hiện của sức mạnh hiên ngang, mạnh mẽ trong quá trình khám phá bản thân, thâm nhập vào thế giới và khát vọng vươn tới tương lai. Quá trình như vậy không thể có được sự thuận lợi ngay từ đầu mà còn tiềm ẩn những hiểm nguy, vất vả. Hình ảnh mẫu vụt hiện như nhân vật nâng đỡ, hỗ trợ, bảo vệ vô hình trong mọi trường hợp cho nhân vật con.

            Nhà thơ Trương Trọng Nghĩa coi mẫu là thần tượng. Trong thơ anh, mẫu đại diện cho sự sinh sôi nảy nở, trù phú; mẫu còn là đấng toàn năng với các chức năng sinh thành, che chở, bảo vệ, hướng dẫn và cùng con vượt qua bao sóng gió của cuộc đời.

                                    Con nước lớn ru phù sa trầm tích
                                    Mẹ qua sông bôn vạn thọ rực vàng
                                    Khoảng sông rộng chở bốn mùa cây trái
                                    Những mùa màng nghe nặng trĩu phù sa

                                                                                    (Chiều sông Tiền)

                                    Và lời ru của bà, của mẹ sẽ lớn dần theo con

                                                                                    (Ngày con chào đời)

            Người mẹ vất vả nhọc nhằn là hình tượng thơ thường thấy để phản ánh nỗi cực khổ của đời người và một thời kỳ dài đã qua. Khác với phong cách diễn tả truyền thống, phong cách diễn đạt của Trương Trọng Nghĩa thật góc cạnh và chính sự chân thật góc cạnh ấy lại càng làm ám ảnh người đọc về những hình tượng nhà thơ xây dựng. Tuy vậy, thơ Trương Trọng Nghĩa có những câu thơ gợi nhớ cho chúng ta phong vị ca dao của những làng quê xưa về người mẹ hiền:

                                    Những xóm nghèo với bà mẹ quê lam lũ
                                    Tôi tiếc thương vách đất, nhà tranh và những chiếc cầu tre cũ

                                                                                    (Trên bàn nhậu với một lão nông)

                                    Ngồi nhặt vệt thời gian trên tóc mẹ, nghe tháng ngày bình yên…

                                                                                                            (Một ngày)

            Hình ảnh mẹ “tóc bạc phơ” đã in bóng trong thơ văn truyền thống nay lại in bóng trong thơ Trương Trọng Nghĩa qua cái nhìn tinh tế hơn của “vệt thời gian”. Hình ảnh của người mẹ, của quê hương tuổi thơ rõ ràng vẫn còn vang bóng trong đời sống của nhà thơ:

                        Ngày tôi sinh bìm bịp khản giọng gọi con nước lớn
                        Lũ ngập trắng đồng, hoa điên điển vàng mênh mông
                        Giữa đỉnh triều mẹ một mình vượt cạn
                        Nhịp mưa rơi trên mái lá nao lòng

                                                                        (Quê nhà)

                        Đâu dáng mẹ bên cầu ao giặt áo
                        Mái lá nghiêng che xô lệch trời chiều?

                                                                        (Đứng trước nền nhà cũ)            

Hình ảnh mẫu hay hình ảnh mẹ là hình ảnh mà nhà thơ Trương Trọng Nghĩa đã cố công gây dựng trong tác phẩm của anh. Đó là đấng toàn năng, đấng cứu rỗi và phù hộ độ trì cho những người con, mang ý nghĩa về sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật. Vì vậy, đó là khát vọng vô biên của con người trong đời sống vật chất và tâm hồn. Đó là sự chở che vĩ đại cho linh hồn con người. Hình ảnh người mẹ chắc chắn được lấy ra từ đời sống thực, đời sống của loài người. Người mẹ là người sinh thành, dưỡng dục và hy sinh vì con, là người mẹ đồng cam cộng khổ, là người mẹ theo sát người con trọn một đời. Trương Trọng Nghĩa viết về mẹ vô cùng cảm động, sự cảm động không chỉ dâng lên ở con tim mà còn dâng lên cả trong khối óc.

TS. NGUYỄN TRỌNG HIẾU

Một giọng thơ trong trẻo, da diết và mang nhiều nỗi niềm hoài niệm

Trương Trọng Nghĩa là một tác giả thơ trẻ của đồng bằng sông Cửu Long. Vùng đất nhiều lúa gạo, nhiều loại cây trái, sông ngòi, cá tôm, và cả vị mặn mòi đất đỏ phù sa ấy đã tạo nên một hồn thơ mang đậm chất “đồng bằng sông nước”. Đọc thơ Trương Trọng Nghĩa, người đọc dễ nhận ra giọng thơ mang dấu ấn ruộng đồng, quê kiểng; sự bình dị, hồn hậu, trong trẻo, chân thành nhưng đầy hào sảng, nhiều trăn trở và đầy nỗi suy tư, hoài niệm. Đó chính là tiếng lòng tha thiết của người viết trẻ vốn nặng tình với mảnh đất quê hương. Nơi đã ghi dấu biết bao kỷ niệm của quá khứ đã qua và cả những gì của hiện tại hôm nay. Bay lên từ cánh đồng là tập thơ mới nhất của anh, 35 bài thơ trong tập sách đã thể hiện tương đối đầy đủ những điều vừa nói ở trên. 

Tình yêu và sự gắn bó với mảnh đất quê hương đã ăn sâu vào trong huyết mạch trở thành niềm tin và lẽ sống. Do vậy, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào đất và con người quê hương cũng được anh nhắc đến với một sự trân trọng, thành kính thiêng liêng. Ở đó, nhà thơ còn bộc lộ nhiều những trăn trở, suy tư. Cái trăn trở và suy tư của một con người có trách nhiệm, một công dân sống và cống hiến hết mình với cuộc đời.

Ngay nhan đề tập sách và nhiều bài thơ trong tập thơ này, cánh đồng được Trương Trọng Nghĩa đề cập đến nhiều lần. Phải chăng là có dụng ý? Cánh đồng hiện hữu trong thơ Trương Trọng Nghĩa như một cõi náu mình của những đứa con lớn lên từ bùn đất, đó là đất mẹ bao dung, nơi sinh tồn, chở che, bao bọc, nuôi dưỡng con người. Cánh đồng không chỉ được hiểu theo nghĩa thông thường mà cao hơn nó hàm chứa những giá trị tinh thần nhân văn sâu sắc, khiến cho con người phải nâng niu, trân trọng. Nhà thơ tìm về cánh đồng như một hình thức tự nuôi dưỡng, tái sinh về tâm hồn trước bao biến động ở ngoài kia.

Trương Trọng Nghĩa vẫn luôn khắc ghi sự biết ơn và mang theo những ký ức bên mình:

Mẹ tôi gửi tuổi xuân cho bao mùa mưa nắng trên đồng
Cánh đồng trả cho chúng tôi những bát cơm thơm dẻo
Cha tôi gửi giọt mồ hôi nhọc nhằn, vất vả
Cánh đồng qua từng mùa gieo gặt vẫn mượt mà xanh

Đời người bao năm đong đếm thành tuổi cánh đồng
Qua hết mùa mạ non vẫn một màu xanh bát ngát
Chúng tôi lớn lên từ cánh đồng bao la tình yêu của mẹ
Từng hạt phù sa đắp bồi cho bốn mùa cây trái sinh sôi

                                                                                          (Tuổi xuân cánh đồng)

Cảm thức về thời gian, kiếp người, những nỗi thăng trầm dâu bể đó là sự bộc lộ rõ nhất nỗi buồn của người thi sĩ. Khi anh không thể níu lại được bước đi của thời gian. Để rồi cái còn lại là những nỗi nhớ vô vàn. Những năm tháng tuổi thơ đã hằn sâu trong tâm thức. Ngày trở về quê cũng là ngày anh trở về bên cánh đồng để tìm lại “những gì đã mất” và anh đành phải gửi lại trong thơ.

Về bên cánh đồng chạm khoảng trời mênh mông
Nhớ mùi khói và giấc mơ chập chờn cổ tích
Tuổi thơ như cánh diều đã khuất xa mờ mịt
Những ngày xa xưa đành gửi lại trong thơ

                                                          (Bên cánh đồng lớn)

Em xúng xính lẫn trong miền cổ tích
Miệt vườn anh xanh câu hát bốn mùa
Đò rẽ sóng, qua sông Tiền chợt nhớ
Vội vàng thơ anh viết để tặng ngày xưa

                                                          (Qua sông Tiền chợt nhớ)

Tuổi thơ gắn liền với những năm tháng khổ nghèo nhưng đó là hành trang, là động lực để anh sống và làm việc cho hiện tại và tương lai.

Tuổi thơ tôi – chú dế đi hoang bỏ cánh đồng cỏ cháy
Dòng sông với những hạt phù sa mắc cạn
Giấc ngủ mê in dấu hình hài
Đi qua tuổi thơ
Bàn chân còn bám đầy vết phèn nâu đỏ
Tôi – gã cà cuống còn nợ thân cây lúa
Đau đáu giấc mơ đồng bằng
Thấp thoáng bóng mùa trôi…

                                                (Ngày về)

Những hình ảnh thân thuộc của quê nhà lần lượt hiện diện trong tâm tưởng của một người từng sinh ra và lớn lên nơi ruộng đồng, với những tháng ngày gian lao, nhọc nhằn, được thua cơm áo.

Tôi lớn lên theo từng đàn cá linh về
Từng mùa lũ trắng đồng, cánh cò mê mải
Bát cơm xanh xanh màu đọt choại
Ơ cá rô kho mặn đắng bờ môi

                                                (Quê nhà)

 Ở đó có bóng dáng của ông bà, mẹ cha và những người bà con thân thuộc. Họ gắn bó với ruộng đồng, phải oằn mình chống chọi với những bất thường của gió, mưa, bão, lũ.

Hiện thực cuộc sống thời hiện đại với bao bộn bề, phức tạp, sự thay đổi đến chóng mặt trên nhiều phương diện đã làm cho nhà thơ không khỏi xót xa. Tìm về quá vãng, với quê hương, ruộng đồng, người thân… Đó là cách để nhà thơ nhìn nhận, giãi bày đầy đủ những điều sâu kín của lòng mình.

Ngày tôi sinh bìm bịp khản giọng gọi con nước lớn
Lũ ngập trắng đồng, hoa điên điển vàng mênh mông
Giữa đỉnh triều mẹ một mình vượt cạn
Nhịp mưa rơi trên mái lá nao lòng

Và, rồi ngày hôm nay nhân vật trữ tình trở lại cố hương, mọi thứ đã khác xưa.

Tôi trở về bên cánh đồng tứ giác/ Nắng rụng bờ đê ngỡ điên điển vàng bông/ Chốn cũ giờ không tìm đâu dáng mẹ/ Lời ca dao buồn rưng rưng… (Quê nhà)

Cái đau đớn tột cùng là bóng dáng của người mẹ đã không còn, những giọt nước mắt vọng lại từ nỗi đau như mới hôm qua. Đâu dáng mẹ bên cầu ao giặt áo/ Mái lá nghiêng che xô lệch trời chiều? (Đứng trước nền nhà cũ)

Tình yêu quê hương tha thiết đã tuôn chảy trong thơ anh thành một thế giới hình ảnh vừa quen vừa lạ, vừa mới mẻ lại gần gũi, thân thuộc. Vẫn những hình ảnh của miền Tây sông nước với: cánh đồng, ruộng lúa, cánh cò, nhánh lục bình, hoa bần tím, chú lìm kìm, con nước lớn, hoa điên điển, dòng sông, điệu hò… nhưng Trương Trọng Nghĩa đã thổi vào đấy cái hồn của sự trực giác và cả cõi sâu vô thức.

Giật mình từng bầy sẻ nâu bay vút lên
Hương lúa nồng nàn chiều quê hát lời rơm rạ
Đất rì rầm những dòng diệp lục đêm ngày hối hả
Cho hạt nảy mầm, cây ươm nụ sinh sôi

                                                          (Bên cánh đồng lớn)

Thơ Trương Trọng Nghĩa cấu trúc theo dòng hồi ức. Miền ký ức trỗi dậy khi nhà thơ chợt nhận ra những gì của quá khứ hôm qua và hiện tại hôm nay có biết bao điều đáng để suy ngẫm.

Cánh đồng bé thôi mà mẹ tôi quanh quẩn cả cuộc đời
Mỗi vụ gieo trồng mẹ lại gửi vào đất đai bao hy vọng
Tôi theo cha ra đồng, đôi chân trần lóng ngóng
Từng bờ ruộng không đếm hết những dấu chân cha
Trong nắng vàng mênh mông, rì rào giai điệu lá
Bầu trời xanh, dòng sông xanh, thăm thẳm đồng xanh
Tôi chạy theo đàn sẻ nâu khát những chân trời xa tít
Mùa xuân bay vút lên từ những cánh đồng…

                                                          (Tuổi xuân cánh đồng)

Anh tự đấu tranh cho chính bản thân mình và tìm kiếm sự đồng cảm xung quanh. Nhà thơ nhận ra mọi thứ đã đổi thay, khiến trái tim đa cảm như anh phải rỉ máu. Bởi Trương Trọng Nghĩa vốn không phải sinh ra ở thành thị nên ngay từ nhỏ anh đã tiếp thu trọn vẹn văn hóa làng quê. Điều đó lại làm cho anh ray rứt:   

Bạn bè bỏ quê kiếm sống hết rồi
Xóm nhỏ ngày xưa giờ cũng thành phố chợ
Bên cánh đồng con sáo già ngơ ngẩn
Đàn trâu bỏ đi đâu rồi, trâu ơi!

                                          (Bên đồng chiều)

Đứng trước nền nhà cũ, lòng anh lại quặn đau khi nhận ra lớp bụi thời gian đã phủ dày ký ức, mảnh vườn xưa không còn, mùi hương cau chẳng có, mẹ thì xa biền biệt, bạn bè thuở thiếu thời tắm sông, bắt cá thì mỗi đứa một nơi, hình ảnh chái bếp với khói lam chiều, nồi canh rau tập tàng mẹ nấu cũng đã trở thành quá vãng…

Rồi biết bao nỗi nhớ, niềm đau cứ ngày mỗi dày hơn.

Cứa vào tôi những nỗi đau không tên/ Vụn vỡ niềm tin phù phiếm/ Trong những mảnh thủy tinh sắc nhọn/ Gương mặt tôi hóa muôn vạn khuôn mặt người.

                                                                          (Mảnh vỡ)

 Trương Trọng Nghĩa tìm kiếm sự đồng vọng cả trong tiềm thức và vô thức. Giờ đây khi làm việc ở phố thị nhưng không lúc nào anh nguôi quên những năm tháng ở quê nhà. Nhà thơ nuối tiếc và cảm thấy mình mắc nợ với quê hương, với mẹ cha, tiên tổ.

Ra đi tôi nợ cánh đồng lời tạ lỗi
Khi hạt cơm thơm dẻo còn dính ở khóe môi
Chén canh rau tập tàng còn ngọt ngào đầu lưỡi
Mùi bùn đất còn nghe ngai ngái
Khói đốt đồng chiều hôm ấy còn cay

Mẹ tôi gầy gò như cây lúa héo hon
Cố tiễn tôi qua hết những cánh đồng trơ rạ
Tiếng còi tàu vang rền làm đàn chim giật mình hối hả
Bay vút lên từ phía những cánh đồng
Bỏ lại khoảng trời mênh mông…

                                          (Bay lên từ cánh đồng)

 Trương Trọng Nghĩa đã trải lòng mình trước cuộc sống để rồi cảm thức về sự ngắn ngủi của đời người mà ở đó mọi thứ được ký gửi vào thời gian. Sự trăn trở, thao thức, tự đối diện với mình, tự vấn lương tâm để soi thấu, tìm về nguồn cội, bản ngã để tương giao, hòa hợp, củng cố niềm tin và sưởi ấm hồn người.

Những buổi chiều thiếu không gian
Hồn tôi mộng du trên những nóc tầng cao ốc
Trong tôi còn lại một góc bình yên
Giữa phố xá ồn ào

                          (Những buổi chiều không ý tưởng)

Thơ Trương Trọng Nghĩa neo lại trong tâm hồn bạn đọc bởi những vần thơ giàu ý nghĩa, tứ thơ lạ với những liên tưởng bất ngờ, thú vị. Ngôn ngữ thơ tự nhiên nhưng giàu cảm xúc, hình ảnh thơ độc đáo mang tính biểu tượng cao. Anh sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật cùng với việc khai thác các chiều không – thời gian làm bộc lộ rõ nét cái tôi gắn bó với quê hương xứ sở như mạch suối nguồn xuyên suốt chảy trong thơ.

NGUYỄN VĂN HÒA
(Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Tiền Giang số 99 – 2020)

Nhà thơ Trương Trọng Nghĩa: “Tôi để cảm xúc thơ của mình tự do bay trên cánh đồng thơ ấu!”

0

Nhà thơ Trương Trọng Nghĩa vừa ra mắt tập thơ “Bay lên từ cánh đồng” (NXB Văn hóa – Văn nghệ ấn hành), tạo dấu ấn với những bài thơ đượm nét chân quê và gợi bao hoài niệm qua những câu thơ mới lạ, cuốn hút. Chia sẻ với phóng viên Báo Cần Thơ về tập thơ này, nhà thơ người Tiền Giang nói thêm:

– Ở “Bay lên từ cánh đồng” lần này, tôi đào sâu hơn mảng đề tài viết về làng quê với những vẻ đẹp truyền thống và những ký ức tuổi thơ trong trẻo. Ðọc tập thơ này, bạn đọc sẽ bắt gặp nhiều hình ảnh hết sức bình dị từ cánh đồng, đất đai, ruộng vườn, dòng sông… cho đến những người nông dân, những người trẻ bỏ làng lên phố với bao ước mơ, hoài bão. Tập thơ là những ký ức tuổi thơ mang vẻ đẹp thi vị, chất chứa trong đó là sự tiếc nuối cái đẹp nguyên sơ, chân chất của làng quê đã phôi pha theo thời gian, theo sự biến đổi của cuộc sống.

Cũng vì thế ở tập thơ này, tôi không quan tâm nhiều đến việc cách tân thơ, tôi để cảm xúc thơ của mình tự do bay trên cánh đồng thơ ấu bằng những gì chân thật và bình dị nhất từ sâu thẳm trái tim mình.

* PGS-TS Hồ Thế Hà nhận xét thơ anh “nặng sâu tình người, tình quê hương, xứ sở… Nó đánh thức “con người nhà quê” luôn ẩn núp trong mỗi chúng ta”. Anh nghĩ gì về nhận xét này?

– Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cho rằng: “Mỗi người Việt Nam đều có trong hồn mình một người nhà quê”. Quá trình đô thị hóa nhanh và việc di dân tự do đến các thành phố lớn khiến cho nhiều người trẻ hôm nay sớm “ly hương” và “ly nông”, tuy nhiên, trong tâm hồn mỗi người vẫn còn đâu đó “con người nhà quê” hồn hậu, chân chất. Và khi bắt gặp một hình ảnh, một mùi hương, một giọng nói, một câu ca… quen thuộc thì những ký ức làng quê lại quay trở về mãnh liệt và trọn vẹn.

Thật may mắn nếu thơ của tôi làm được điều đó, khi nó đánh động vào tâm hồn, nơi sâu thẳm và tốt đẹp nhất của mỗi chúng ta.

* Nhưng cũng có người cho rằng, ký ức đồng quê bây giờ có lẽ như đang bị “khai thác quá mức”, “lạm phát” trong văn chương, làm nên sự trùng lắp, lối mòn nhàm chán. Anh nghĩ sao?

– Nông nghiệp, nông thôn và người nông dân từ lâu vốn là đề tài yêu thích của tất cả các loại hình văn học nghệ thuật. Có lẽ vì thế, nhiều người nghĩ rằng làng quê và những cánh đồng đã có quá nhiều người cày xới, thâm canh đã trở nên kém màu mỡ, không còn gây hứng thú cho các tác giả cũng như độc giả đương đại.

Cuộc sống hôm nay với bao đổi thay, quá trình xây dựng nông thôn mới mang lại đời sống và bộ mặt tươi mới cho làng quê. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong đời sống hiện đại, như: việc giữ gìn bản sắc văn hóa trong quá trình phát triển, mối quan hệ xóm giềng, những thay đổi về giá trị thẩm mỹ, không gian văn hóa đặc trưng của làng quê Việt Nam từ mái đình, cây đa, bến nước, con đò… đang có nhiều thay đổi. Những “mảnh vỡ” trong tâm hồn trước sự đổi thay, những nếp cũ và mới cọ xát nhau trên giá trị mới đang hình thành. Ðây chính là những chất liệu mới, nguồn cảm hứng sáng tác cho văn nghệ sĩ. Và tôi tin rằng, nếu khéo léo tránh giẫm phải dấu chân những người đi trước, thì đây vẫn là một đề tài lớn của văn học đương đại.

* Là một nhà thơ trẻ nổi bật và rất tâm huyết với văn học trẻ ÐBSCL, anh nhận định gì về lực lượng này hiện nay. Theo anh, cần làm gì để văn học trẻ đồng bằng bứt phá hơn trong thời gian tới?

– Dù chưa thật sự sôi động nhưng thời gian qua văn học trẻ đồng bằng vẫn khẳng định được bản sắc và vị trí của mình trên văn đàn cả nước. Ðội ngũ những cây bút trẻ với nhiều sự tìm tòi, đổi mới đang hứa hẹn cho những sự cách tân trong văn chương thời gian tới đây. Sự xuất hiện nhiều hơn về số lượng tác giả trẻ và tác phẩm có chất lượng đã phần nào cho sự ổn định trong phong cách sáng tác, góp phần tạo nên diện mạo đa sắc cho văn học ÐBSCL đương đại. Những tác giả trẻ từ thế hệ 8X trở đi, về văn có thể kể đến: Lê Minh Nhựt, Trương Chí Hùng, Hoàng Khánh Duy, Nghiêm Quốc Thanh, Trần Sang, Lê Quang Trạng, Trương Văn Tuấn, Huỳnh Trọng Khang, Phát Dương… Về thơ có Võ Mạnh Hảo, Nguyễn Giang San, Huệ Thi, Nguyễn Ðức Phú Thọ, Phan Duy, Vĩnh Thông, Nguyễn Hữu Trung, Nguyễn Bàng…

Nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Trương Thị Thanh Hiền, nhà văn Trầm Hương, nhà thơ Thái Hồng và nhà thơ Trương Trọng Nghĩa (từ trái sang) tại một hội thảo về văn học ĐBSCL vào năm 2019. Ảnh: NVCC

Lực lượng đã có, để bứt phá, tôi cho rằng phải trông đợi nhiều vào tài năng và sự nỗ lực tự thân của mỗi người đã có. Bên cạnh đó, rất cần có sự động viên, khích lệ của các Hội Văn học Nghệ thuật ở địa phương, sự tác động của những cây bút đã thành danh để họ có thể phát huy hết khả năng và niềm đam mê đối với văn chương.

* Xin cảm ơn anh!l  

ĐĂNG HUỲNH (thực hiện)
Nguồn: Báo Cần Thơ

Với khúc sông nho nhỏ

0

Nỗi nhớ có dài rộng như sông
Sao chiều nay hồn tôi cứ dạt trôi theo cánh hoa bần tím?
Lạc giữa mênh mông khoảng sông lộng gió
Bâng khuâng cứ ngỡ quê mình

Bỗng dưng như kẻ nhớ nhà
Tôi đi dọc chiều nước lớn
Gặp lại tuổi thơ chú lìm kìm tung tăng đùa bóng
Nhánh lục bình khơi chuyện cũ xa xôi

Khúc sông xưa bao bận đầy vơi
Vẫn đôi bờ xanh ngát xanh bên bồi, bên lở
Chỉ có thế nhưng cứ là nỗi nhớ
Giản dị vậy thôi mà tha thiết như là…

Mênh mông chiều ở một nơi xa
Khúc sông nào vừa đi ngang đã thành ra nỗi nhớ
Xin giữ giùm tôi những bí mật của ngày mới lớn
Cánh hoa bần xưa còn trôi mải miết đến bây giờ

Đôi dòng sông như đôi cánh tay dang
Như muốn ôm tất cả vào lòng châu thổ
Gởi theo con nước bao buồn vui, nhung nhớ
Về chín nhánh Cửu Long đâu đâu cũng quê mình…

TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA

Cảm thức hoài niệm và cảm quan sinh thái nhân văn trong thơ Trương Trọng Nghĩa

Tôi đọc thơ Trương Trọng Nghĩa chưa được nhiều vì điều kiện gián cách về không gian và thời gian, nhưng không nhầm thì tôi may mắn đọc tập thơ đầu tay của anh cách đây khoảng 10 năm – tập Những mảnh ghép không logic, Nxb. Văn Nghệ ấn hành. Khi đó, tôi đã thấy ở nhà thơ trẻ này một tâm hồn phóng khoáng, tin yêu và giàu tính hoài niệm mang cảm quan sinh thái nhân văn sâu nặng. Giờ đây, đọc tập thơ mới Bay lên từ cánh đồng (2019) xuất bản sau 13 năm lặng lẽ với tâm niệm của anh là “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, tôi càng phát hiện ra một vấn đề có tính bản thể của “tâm lý học sáng tạo” và “cơ chế tự vệ” của “cái tôi trữ tình” mà mỗi nhà thơ, nhất là những nhà thơ có ý thức lập ngôn thường lặp đi lặp lại như những ám ảnh vô thức. Đó là cảm thức hoài niệm tinh thần sinh thái, đạo đức sinh thái đậm đặc trong thơ Trương Trọng Nghĩa.

Ngay từ thi tập Những mảnh ghép không logic, Nghĩa đã có những câu thơ mang cảm quan hoài niệm dành cho trái tim mình: “Anh về đứng giữa tháng giêng và hát/ Như gã điên thỉnh thoảng tự ru mình/ Chỉ có em và tuổi thơ trẻ mãi/ Cùng tháng giêng trong ký ức/ Riêng anh” (Tháng Giêng). Sau đó là cảm quan hoài niệm mang tính đời tư – thế sự: “Những buổi chiều thiếu không gian/ Hồn tôi mộng du trên nóc những tầng cao ốc/ Trong tôi còn lại một góc bình yên/ Giữa phố xá ồn ào” (Những buổi chiều không ý tưởng). Và cuối cùng là một thức nhận sinh thái thiên nhiên: “Ngửa mặt gặp vầng trăng cũ/ Giật mình…/ Trước giọt sương tan”(Ký ức). Tôi xem đây như là chìa khóa nghệ thuật (artistic key) để mở lối vào thơ Nghĩa. Cụ thể là ở tập thơ Bay lên từ cánh đồng mà tôi đang có trong tay.

Đọc toàn bộ thi tập, tôi bắt gặp hình ảnh đất đai, cánh đồng, dòng sông và bầu trời quê hương – nơi anh sinh ra và lớn lên với tần suất đậm đặc. Bài thơ Tuổi xuân cánh đồng có thể xem là phẩm tính kết tinh của hồn thơ Trương Trọng Nghĩa:

Mẹ tôi gửi tuổi xuân cho bao mùa mưa nắng trên đồng
Cánh đồng trả cho chúng tôi những bát cơm thơm dẻo
Cha tôi gửi bao giọt mồ hôi nhọc nhằn, vất vả
Cánh đồng qua từng mùa gieo gặt vẫn mượt mà xanh

Trên cánh đồng và đất đai quê kiểng ấy, những người thân ruột thịt của anh hiện lên với biết bao gian truân, vất vả để làm nên màu xanh sự sống. Mẹ cha anh đã: “Trải qua bao tháng, bao năm/ Lúa trên đồng vẫn xanh mà tóc cha đã bạc/ Dáng mẹ gầy gò đếm từng mùa giáp hạt/ Lam lũ đôi tay nhăn nheo một đời bám đất, dính phèn”. Còn ông và cha anh đã trở thành những thế hệ “lão nông tri điền” biết từng buồn vui và nết đất ruộng đồng; sống với đất và chết lại về với đất: “Ông cha tôi những lão nông tri điền/ Quen mùi ruộng đồng, am tường chuyện nông gia thời vụ/ Bao đời cấy cày trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn/ Rồi lặng lẽ ngày trở về với đất/ Đất ôm trọn vào lòng che chở, bao dung”. Để bao thế hệ tuổi thơ như anh lớn lên được tắm mình trong màu xanh bao dung của quê hương, xứ sở:

Đời người bao năm đong đếm thành tuổi cánh đồng
Qua hết mùa mạ non vẫn một màu xanh bát ngát
Chúng tôi lớn lên từ cánh đồng bao la tình yêu của mẹ

Đó chính là thế giới thiên nhiên chở che và nuôi dưỡng sự sống của mỗi phận người. Trương Trọng Nghĩa đã tắm gội trong không – thời gian sự sống như thế. Giờ đây, môi trường ấy không còn vẹn nguyên trong trực quan sinh động mà đã trở thành không – thời gian hoài niệm của tác giả. Bảo làm sao không tiếc nuối, xót xa? Tất cả “những tình cảnh điển hình” ấy, trở thành những cổ mẫu (archétypes) nằm sâu trong vô thức của anh, chập chờn, mộng ảo. Giờ đây, chúng bỗng bừng thức trong những giấc mơ đêm và xôn xao trong tâm lý và ý hướng sáng tạo của Nghĩa bằng “Giấc ngủ mê in dấu hình hài”. Ký ức bóng mùa xưa đã trôi vào dĩ vãng, giờ bỗng ùa về chật cả tuổi thơ:

Đi qua tuổi thơ
Bàn chân còn bám đầy vết phèn nâu đỏ
Tôi – gã cà cuống còn nợ thân cây lúa
Đau đáu giấc mơ đồng bằng
Thấp thoáng bóng mùa trôi…

                                                            (Ngày về)

Theo tôi, mỗi nhà thơ đích thực, có thân phận và số phận của riêng mình khi bị ám ảnh bởi những hình tượng đặc biệt nào đó từ trong hiện thực cuộc sống. Chúng đã thành ám ảnh hữu thức và vô thức, có cả vô thức tập thể mà mình không hay biết, nhưng đến một ngưỡng nào đó, chúng lại thành thi giới lung linh, huyền ảo, trở thành bản mệnh người và bản mệnh thơ, cuối cùng, kết tinh thành phong cách tác giả.

Là nhà thơ gắn bó với đồng quê, giờ đây, khi dịch chuyển môi sinh, không còn hiện hữu trong không gian hiện thực ấy nữa, Trương Trọng Nghĩa lại liền chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi một thế giới hiện thực khác (the other realistic world). Hiện thực ấy luôn thay đổi bất an, gắn với những âu lo hiện sinh đời người, nên anh không thể không bị tác động và tổn thương: “Đã có ít nhiều mất mát/ Đã có ít nhiều tổn thương” (Mảnh vỡ), làm thành vết sẹo trong tâm hồn có sức lay động và day dứt để trở thành ám ảnh trong tâm lý sáng tạo.

Vậy nên, từ hình tượng mẫu gốc như tôi vừa đề cập bên trên, Trương Trọng Nghĩa đã để ngòi bút của mình gọi về những ký ức làng quê và đồng hiện chúng trong hiện tại để được thức nhận và thực chứng quan hệ hiện sinh của chính mình và anh gọi đó là “con đường dắt tôi  đi về phía nỗi nhớ” (Ngày về). Không có nỗi nhớ  ấy, anh sẽ trở thành người  có tội  và mắc  nợ, trước  hết, với từng suy nghĩ và cảm giác bé nhỏ của anh:

Ra đi tôi nợ cánh đồng lời tạ lỗi
Khi hạt cơm thơm dẻo còn dính ở khóe môi
Chén canh rau tập tàng còn ngọt ngào đầu lưỡi
Mùi bùn đất còn nghe ngai ngái
Khói đốt đồng chiều hôm ấy còn cay

                                        (Bay lên từ cánh đồng)

Sau đó, là mắc nợ với quê hương, nếu một ngày bất chợt anh thấy tâm hồn mình nặng trĩu “mỏi mệt giữa chốn thị thành”. Khi đó, anh sẽ trở thành người buông xuôi theo tiếng gọi tìm về của hồn quê yêu dấu: “Ta cứ mặc kệ chuyện đời/ Về lặn hụp bên khoảng sông mênh mông ấu thơ tắm táp/ Nơi góc vườn có những nụ trâm ổi lặng lẽ nở chờ ta”. Anh tha hồ lang thang trong những không gian hoài niệm tuổi thơ:

Về nghe tiếng lũ chim gì đó hót sau nhà
Con ong bầu náu mình nơi cột nhà nghe lời ru cánh võng
Đêm có tiếng ếch nhái gọi trăng bên con mương nhỏ
Và ta là chú dế trũi lang thang…

                                          (Một ngày)

Cái nhìn hiện thực mang tính hoài niệm và trực cảm trong thơ Trương Trọng Nghĩa, lúc đầu xuất phát từ những quan hệ thiêng liêng, gần gũi theo tinh thần sinh thái học thiên nhiên. Chúng hiện lên thành hình ảnh, ngôn từ mang tính trực quan sinh động. Ở đó, Nghĩa thấy được giữa con người và thiên nhiên trong sự tác động tự nhiên vốn có của nó dưới ánh sáng “nhân loại trung tâm luận”, mượn/ coi thiên nhiên là sinh thái chủ đạo để thể hiện nỗi lòng mình bằng cái nhìn gần gũi, thân thiện, gắn kết, bao dung với nơi “chôn nhau cắt rốn” của anh. Nhưng càng về sau, khi kết tinh thành “cái nhìn nghệ thuật”, theo cách nói của Bakhtin, thì Trương Trọng Nghĩa đã thấy được mối quan hệ cộng hưởng, tương tác giữa thiên nhiên và con người ở tầm nhận thức mới, có tính hiện đại và hậu hiện đại như chúng vốn có. Khi ấy, hiện thực sinh thái được phản ánh trong thơ anh trở thành hiện thực sinh thái văn hóa – tinh thần; từ đó, giúp Nghĩa hình thành nên những diễn ngôn về thế sự và quê hương sâu sắc, có chiều sâu văn hóa và tinh thần đạo đức sinh thái hiện đại hơn trước đó, dù có khi đó là kết quả của vô thức sáng tạo:

Giật mình từng bầy sẻ nâu bay vút lên
Hương lúa nồng nàn chiều quê hát lời rơm rạ
Đất rì rầm những dòng diệp lục đêm ngày hối hả
Cho hạt nảy mầm, cây ươm nụ sinh sôi
Về bên cánh đồng chạm khoảng trời mênh mông
Nhớ mùi khói và giấc mơ chập chờn cổ tích
Tuổi thơ như cánh diều đã khuất xa mờ mịt
Những ngày xa xưa đành gửi lại trong thơ

                            (Bên cánh đồng lớn)

Từ đó, những lây lan cảm xúc diễn ra, mặc cho ký ức gọi ký ức, những chập chùng ảnh tượng đứt nối hiện về trong hiện tại để anh tìm lại “giấc mơ bị đánh mất”, có thế, anh mới được thỏa mãn mong ước của mình, dù chỉ là trong tâm lý, có khi là ảo giác thiên di:

Bằng cách nào đó tôi đã vẽ rất nhiều khối lập phương
Trên những cánh hoa tulip vừa được cắm
Đêm qua hình như có cơn mưa ngang qua thành phố
Cơn khát tôi uống cạn bầu trời…
Và tôi đã hát bằng lời của loài thiên di.

                                          (Giấc mơ bị đánh mất)

Nghĩa là trong vô thức, anh có thể bị phân thân thành nhiều “cái tôi khác”, chúng cộng hưởng và đối lập nhau, va đập, xoay tròn như đứng trước mặt kính vạn hoa. Những mảnh vỡ tiềm thức đồng hiện:

Soi mình trong mảnh vỡ chiếc gương
Tôi chạm mặt những cái tôi rất khác
Cái tôi trần tục, cái tôi thiên thần, cái tôi không phải là tôi…
Trân trối nhìn nhau như kẻ thù.

                                 (Mảnh vỡ)

Những giấc mơ không bình yên hiện về chập chờn, mê tỉnh. Và như một “cơn ác mộng”, một thoáng thôi miên, anh tự thú: “Tôi thấy hồn mình đang rời khỏi xác/ Và tự tôi phủ định chính tôi” (Cơn ác mộng). Tiếp theo là một bừng thức trong mê: “Nửa đêm/ Ai mang khu vườn đi mất/ Chỉ còn những cánh bướm chập chờn rợn ngợp giấc mơ tôi” (Cánh bướm vườn xưa). Để sau đó là một trạng huống chập chờn, mộng mị khác thiên di mệt lả trong anh:

Trong bảng lảng khói sương, trong mịt mùng mây phủ
Tôi tìm bóng mình giữa thành phố của những người lạ xa
Đêm nguyện cầu thấy tôi một mình ngồi khóc
Tỉnh dậy mồ hôi đẫm ướt đầm đìa trên ngực áo
Và tôi thấy tôi đang quỳ…

                                   (Cơn ác mộng)

Nếu phê bình sinh thái(ecocriticism) được Cheryll Glotfelty định nghĩa một cách ngắn gọn “đó là phương pháp phê bình nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường sống”, thì thơ Trương Trọng Nghĩa đã thể hiện mối quan hệ này một cách cụ thể, mà ở đó anh là chủ thể ngôi thứ nhất đang hiện hữu mình trong từng quan hệ với cảnh và người của quê hương – chủ thể nhân hóa ngôi thứ hai – giờ đã là ký ức mù xa, nhưng không bao giờ xao nhãng trong tâm hồn dễ tổn thương và xao động của anh: “Đàn trâu cuối cùng đã ra đi/ Đêm qua gió bấc về, cánh đồng oằn mình/ Bỗng nhớ tiếng “nghé ọ” còn đâu đó trong ký ức/ Chấp chới cánh diều vi vút trong những cơn mơ” (Bên đồng chiều). Đô thị hóa nông thôn diễn ra với tốc độ chóng mặt đã làm thay đổi môi sinh. Nghĩa thấy đau lòng trước tình trạng “Không một ai tiếc thương cho đàn cà cuống đã không về nữa/ Con cua đồng tự xây cho mình nấm mộ/ Nỉ non bài ca của chú dế nhỏ độc hành”. Đạo đức sinh thái qua từng ký ức tâm trạng xót xa của Nghĩa hiện lên: “Trên mảnh đất hương hỏa ông tôi/ Cỏ mọc xanh khuất lấp con đường cũ”, đến nỗi anh không nén được xúc động bằng giọt nước mắt hoài niệm bi ai: “khóc cho tháng ngày ấu thơ không còn nữa”. Những câu hỏi trần tình không cần câu trả lời thay cho lời từ biệt bóng mùa qua luôn xuất hiện trong thơ Nghĩa:

Bè bạn bỏ quê kiếm sống hết rồi
Xóm nhỏ ngày xưa giờ cũng thành phố chợ
Bên cánh đồng con sáo già ngơ ngẩn
Đàn trâu bỏ đi đâu rồi, trâu ơi!

                                (Bên đồng chiều)

Quê nhà giờ đây mẹ không còn nữa, lời ca dao xưa chỉ còn trong ký ức rưng rưng. Anh đành gửi chút mong manh vào kỷ niệm bằng những câu thơ buồn như những cuộc chia ly:

Gởi lại cho mùa khoảng trời thơ bé
Gởi lại cho đêm nỉ non tiếng dế độc hành
Gởi lại cho đời mái tóc xanh thời con gái
Để câu thơ buồn như một cuộc chia ly

                                           (Là chút mong manh)

Trong quan hệ phức hợp của đời sống hiện đại, những kinh nghiệm quan hệ mới sẽ xuất hiện trong thơ, giúp con người thức nhận lại cả quá khứ và hiện tại. Điều này được Thông diễn học hiện đại gọi là sự vẫy gọi của văn bản, làm cho người tiếp nhận hiểu sâu sắc hơn giá trị của thi phẩm. Trương Trọng Nghĩa là người trải nghiệm quan hệ sinh thái quê hương và nâng chúng lên thành cảm quan sinh thái nhân văn, đạo đức cao đẹp. Anh đã bổ sung vào thi giới của mình hiện thực mới nhưng cũng trên cái nền đồng hiện nuối tiếc những ám ảnh mẫu gốc (archétypes) nặng sâu. Những quan sát trực quan của anh về xã hội đô thị hiện đại, giúp anh có cơ hội nhìn thấu thị ký ức làng quê của mình, từ góc nhìn tham chiếu tương đồng và đối lập, nhằm vực dậy niềm tin cho những điều tốt đẹp rồi sẽ đến cho cố hương anh. Và cũng chỉ có thơ mới giúp Nghĩa hoàn thành trọng trách ấy với tâm niệm “Vội vàng thơ anh viết đề tặng ngày xưa” (Qua sông Tiền chợt nhớ).

Theo các nhà hình thức luận Nga, thơ được xem là thể loại thể hiện sự “bạo động có tổ chức đối với những lời nói thường” một cách thi pháp hấp dẫn nhất. Tập thơ Bay lên từ cánh đồng của Trương Trọng Nghĩa,từ góc nhìn sinh thái, sự bạo động ở đây được nhà thơ tổ chức bằng những câu thơ mang cảm quan hoài niệm nhân văn nhức nhối tình đời, tình người. Cuối cùng, ngay cả trong tình yêu, anh cũng phải dựa vào thiên nhiên để xoa dịu lòng mình trước muôn trùng ngọn gió:

Anh băng núi tìm em chỉ thấy cánh rừng sương phủ
Chiều xuống nghe hoang vu tiếng gọi muôn trùng gió
Đá bạc đầu vì lời hứa rêu phong
Em ở đâu giữa trăm năm những huyền thoại xanh màu
Hay dỗi hờn trốn trong cô liêu miền nhan sắc
Nên cơn mưa đi qua vội vàng vẫn còn thơm mùi tóc
Anh đi tìm hết chín ngàn tám trăm mười ba bậc đá
Chỉ gặp nỗi cô đơn của cánh rừng già
Và vi vu lời gió thiết tha…

                                           (Mưa qua miền tóc thơm)

Anh mượn mưa và khúc đồng dao thời thơ dại để hóa giải nỗi buồn thông qua mối tình xưa cũ: “Mưa nhẹ nhàng rơi trên tóc em, trên bờ vai em/ mưa như người bạn cũ/ mưa nhắc em khúc đồng dao thời thơ ấu/ mưa khúc khích…/ tiếng em cười…/ gọi mùa về trên những ngón tay ngoan” (Khúc đồng dao mưa). Ở đó, anh thấy được: “Mong manh dáng em lá cỏ/ Lời yêu xa ngái mấy mùa” (Khẽ chạm cơn mưa).

Nhận xét về thơ Trương Trọng Nghĩa, nhà phê bình Võ Tấn Cường đã tinh tế nhận ra chất hoài vãng trong từng cảm xúc của anh: “Ký ức của tác giả hướng về sự tiếc nuối cái đẹp nguyên sơ, chân chất của làng quê đã phôi pha theo thời gian, theo sự biến đổi của xã hội. Ký ức của tác giả quay về với kỷ niệm tuổi thơ mang vẻ đẹp lung linh và thi vị… Cái nhìn và cảm hứng của tác giả mở rộng và hướng về những mối quan hệ với thiên nhiên, nghệ thuật, tình yêu, cuộc sống”. Tôi hoàn toàn thống nhất với nhận định này khi đi tìm chất thơ và giọng điệu thơ Trương Trọng Nghĩa. Có gì yên bình và hạnh phúc hơn khi cái mất đi lại được tìm thấy trong ký ức vẹn nguyên, trong nỗi nhớ đồng hiện hồn quê, chân quê và tình quê của chính người thơ: “Ngồi nhặt vệt thời gian trên tóc mẹ, nghe tháng ngày bình yên”. Cơ chế của tâm lý tự vệ khi bị đánh mất điều gì đó chính là thái độ phủ định nó để được bình yên, để không bị đe dọa, để được tìm lại chính mình giàu có, tin yêu. Có thế, Nghĩa mới thấy yên bình tâm thế, như cách để anh tạ lỗi với cánh đồng, tạ lỗi với quê hương:

Ngày trở về tôi như đứa trẻ lần đầu đi xa
Rụt rè với đôi bàn chân đất
Những ngày bước thấp, bước cao trên mặt ruộng nứt nẻ chỉ còn trơ rạ
Nhớ mùi khói đốt đồng và vị ngọt cọng cỏ gà xưa.

                                                          (Ngày về)

Đó là hành trình ra đi và cũng là hành trình trở về của hồn thơ Trương Trọng Nghĩa.

*

Hai tập thơ, hai chặng hành trình nghĩ suy, rung cảm và sáng tạo, Trương Trọng Nghĩa đã tự khẳng định tâm thế và tâm cảm của mình để hình thành chất thơ và thi pháp cá nhân. Thơ anh nặng sâu tình người, tình quê hương, xứ sở. Và trong quá trình đô thị hóa của xã hội Việt Nam thời hiện đại, nó giúp nhà thơ và giúp người đọc tìm về nguồn cội để được sống lại trong không – thời gian sinh thái thiên nhiên và nhân văn trong sáng, thanh bình cho mỗi phận người và mỗi kinh nghiệm quan hệ người. Nó đánh thức “con người nhà quê” luôn ẩn núp trong mỗi một chúng ta.

Vỹ Dạ, Huế, đêm 26/10/2019
PGS.TS Hồ Thế Hà
(Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 937, số cuối tháng 3/2020)

Thi sĩ Trương Trọng Nghĩa đang “Bay lên từ cánh đồng”

Đồng ruộng, làng quê là máu thịt là cội nguồn của mỗi người con đất Việt…. Đối với những người quê thoát li lên phố, thì đó còn là một miền ký ức thẳm sâu khơi gợi nhiều thi hứng.

Song hành cùng rất nhiều thế hệ cầm bút lấy đề tài ruộng đồng, cố xứ và nỗi niềm tha hương là đề tài sáng tác. Vào quý IV năm 2019, thi sĩ Trương Trọng Nghĩa đã cho ra đời một tuyển tập thơ ắp đầy nỗi niềm – “Bay lên từ cánh đồng” – NXB Văn Hóa Văn Nghệ.

“Ngổn ngang trăm mối tơ vò” được anh trải lòng trong 35 bài thơ, đa phần được viết theo thể tự do.

Ta bắt gặp ở đây những đau đáu trước ruộng đồng hoang hóa:

“Hồ hởi khi đất được đền bù với giá cao
Không một ai tiếc thương cho đàn cà cuống không về nữa
Con cua đồng tự xây cho mình nấm mộ
Nỉ non bài ca của con dế nhỏ độc hành…”

(Bên đồng chiều)

Anh cũng đồng cảm sẻ chia với những người nông dân chân lấm tay bùn đang đêm ngày nát óc với bài toán “được mùa rớt giá”:

– Khi biết tôi làm thơ

“Khi biết tôi làm thơ
Ông bảo chú em hãy viết về nỗi khổ của người nông dân, về giá phân bón, thuốc trừ sâu cứ tăng còn nông sản thì bấp bênh giá cả
về con đường bao năm hết lầy lội đến bụi mù
về đây đó nọ kia…”

(Trên bàn nhậu với một lão nông)

Có lúc anh lại quắt quay quật quã trong những “Cơn ác mộng” của kiếp nhân sinh hoang hoải bụi trần:

“Khi cơn gió đến reo rắc mùi xú uế
Tôi thấy mình bay lơ lửng giữa điệp trùng sóng điện từ và khói bụi
Khi cơn mưa mang theo đám a xít đầy ám ảnh hủy diệt
Loài người vẫn ngủ mê trong đêm trường thế kỷ mệt nhoài…”

(Cơn ác mộng)

Và… Còn rất nhiều những buồn vui dằng dặc đắng đau, bộn bề nhân thế nữa…

Nhà thơ LÊ HÒA

Bay lên từ cánh đồng

0

Ra đi tôi nợ cánh đồng lời tạ lỗi
Khi hạt cơm thơm dẻo còn dính ở khóe môi
Chén canh rau tập tàng còn ngọt ngào đầu lưỡi
Mùi bùn đất còn nghe ngai ngái
Khói đốt đồng chiều hôm ấy còn cay

Cha thường bảo đất quê luôn nghĩa tình
Đất không phụ người mà chỉ người phụ đất
“Nhà nông vất vả bội phần con ạ!”
Khi hạt gạo còn nhọc nhằn mồ hôi, nước mắt
Đất lành nhưng rồi đàn chim cũng vỗ cánh bay đi

Chiếc sừng trâu cha tôi còn treo nơi góc nhà
Để nhắc nhớ cháu con về một thời gian khó
Một thời con trâu cái cày, đồng sâu ruộng cạn
Giờ trai tráng bỏ làng lên phố
Đêm đêm cha thao thức cùng tiếng vạc sành nỉ non

Mẹ tôi gầy gò như cây lúa héo hon
Cố tiễn tôi qua hết những cánh đồng trơ rạ
Tiếng còi tàu vang rền làm đàn chim giật mình hối hả
Bay vút lên từ phía những cánh đồng
Bỏ lại khoảng trời mênh mông…

TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA

Một chút… ngày xưa cùng với Trương Trọng Nghĩa

Nhà thơ Trương Trọng Nghĩa vừa cho ra mắt tập thơ “Bay lên cùng cánh đồng”, do Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

Đọc toàn bộ tập thơ, độc giả sẽ bắt gặp hình ảnh đất đai, cánh đồng, dòng sông và bầu trời quê hương – nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên với tần suất “đậm đặc”. Thơ của Trương Trọng Nghĩa giản dị, chất phác và trong sáng đến lạ. Khi đọc một bài thơ, trong đầu chúng ta sẽ có một thoáng quê hương của vài chục năm trước. Đối với những độc giả lớn tuổi thì có thể đến 50 năm, 60 năm kỷ niệm; còn đối với thế hệ trẻ thì cũng có một ký ức đẹp, thời gian ngắn hơn. Mỗi người sẽ nhớ về tuổi thơ của mình như những bức tranh đẹp, không thể phai mờ.

Thơ của Trương Trọng Nghĩa có rất nhiều hình ảnh bình thường của ngày xửa ngày xưa, như cánh đồng, bùn đất, đàn chim, nồi canh rau tập tàng hay cả nụ trâm, nụ ổi, nồi cá kho, đến con bìm bịp, con cá linh… Và trong sâu thẳm đó là sự biết ơn những giọt mồ hôi của mẹ và bàn tay chai sần của cha đã nuôi tác giả lớn lên và trưởng thành.

Ra đi tôi nợ cánh đồng lời tạ lỗi
Khi hạt cơm thơm dẻo còn dính ở khóe môi
Chén canh rau tập tàng còn ngọt ngào đầu lưỡi
Mùi bùn đất con nghe ngai ngái
Khói đốt đồng chiều hôm ấy còn cay…

(Bay lên từ cánh đồng)

Có thể nói, Trương Trọng Nghĩa là nhà thơ của đồng ruộng và những nỗi nhớ về tuổi thơ êm đềm của tác giả dường như luôn khắc khoải, thường trực nhớ về những ngày tháng cũ:
“Nếu một ngày bỗng thấy mỏi mệt giữa chốn thị thành
Ta cứ mặc kệ hết chuyện đời
Về lặn hụp bên khoảng sông mênh mông ấu thơ tắm táp
Nơi góc vườn có những nụ trâm ổi nở lặng lẽ chờ ta”.

(Một ngày)

Đọc bài thơ Tuổi xuân cánh đồng có thể xem là kết tinh của hồn thơ Trương Trọng Nghĩa:
“Mẹ tôi gửi tuổi xuân cho bao mùa mưa nắng trên cánh đồng
Cánh đồng trả cho chúng tôi những bát cơm thơm dẻo
Cha tôi gửi bao giọt mồ hôi nhọc nhằn, vất vả
Cánh đồng qua từng mùa gieo gặt vẫn mượt mà xanh.

Trên cánh đồng ấy, những người thân của nhà thơ hiện lên với biết bao gian truân, vất vả để làm nên màu xanh sự sống. Cha mẹ anh đã:

Trải qua bao tháng, bao năm
Lúa trên đồng vẫn xanh mà tóc cha đã bạc
Dáng mẹ gầy gò đếm từng mùa giáp hạt
Lam lũ đôi tay nhăn nheo một đời bám đất, dính phèn”.

Nhà phê bình văn học Võ Tấn Cường đã tinh tế nhận ra chất hoài vãng trong từng cảm xúc của nhà thơ Trương Trọng Nghĩa: Cái nhìn và cảm hứng của tác giả mở rộng và hướng về những mối quan hệ với thiên nhiên, nghệ thuật, tình yêu, cuộc sống…”:

Tôi lớn lên theo từng đàn cá linh về
Từng mùa lũ trắng đồng, cánh cò mê mải
Bát cơm xanh xanh màu đọt choại
Ơ cá rô kho mặn đắng bờ môi.

(Quê nhà)

Nhận xét về thơ của nhà thơ Trương Trọng Nghĩa, PGS-TS Hồ Thế Hà cho rằng thơ Trương Trọng Nghĩa nặng sâu tình người, tình quê hương, xứ sở… Nó đánh thức “con người nhà quê” luôn ẩn núp trong mỗi chúng ta.

HÀ ANH (Báo Ấp Bắc)